Bào tử mốc tương aspergillus oryzae là loại giống mốc làm tương có các công dụng như sau
Cách sử dụng
– Hòa bào tử vào chén nước, vẩy đều lên xôi.
– Sau 4-5 ngày, mốc sẽ mọc vàng kín nong. Do tốc độ sinh trưởng nhanh nên sẽ lấn át các loại nấm mốc hoang dại khó kiểm soát khác.
– Sử dụng bào tử nấm mốc để làm tương rất thuận tiện, giá rẻ và an toàn.
Quy cách đóng gói
Số lượng
Thêm vào giỏ hàng
ĐẶT MUA NGAYGiao hàng ngay trong ngày
CHĂM SÓC KHÁCH HÀNG
Đảm bảo sản phẩm chính hãng, chất lượng cao
Sử dụng hiệu quả, an toàn, đơn giản
Miễn phí vận chuyển cho đơn hàng từ 1.000.000đ
Giao hàng nhanh gọn, nhận hàng thanh toán tiền
Xem danh sách cửa hàng tại đây
MÔ TẢ
Tương là món ăn cổ truyền của dân tốc ta đã có từ lâu đời. Hiện nay, sản xuất tương để kinh doanh đã trở thành một nghề. Từ xa xưa, cha ông đã nghiên cứu ra cách làm tương cổ truyền sử dụng các bào tử mốc tương aspergillus oryzae có sẵn trong môi trường thiên nhiên.
Nong xôi không phải bao giờ cũng chỉ có một loại mốc hoa cau mọc kín đều. Do bào tử rơi từ không khí xuống nên thường xuất hiện các đám mốc dại màu đen hoặc màu xanh lục. Mốc màu xanh lục có thể là Aspengillus flavus rất độc, chúng sinh độc tố aflatoxin gây ung thư. Đã có nhiều trường hợp gia cầm chết hàng loạt do ăn phải thức ăn chế biến từ lạc nhân nhiễm loại nấm mốc này. Nhiều nấm khác cũng sinh độc tố như nấm fumonisin.
Vì vậy, sản xuất tương sử dụng nấm mốc tự nhiên, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, có thể dẫn đến những rủi ro nghiêm trọng.
Từ lâu Công ty đã sản xuất bào tử nấm Aspengillus oryzae dành riêng cho việc làm tương. Đây là chủng nấm mốc đã được tuyển chọn kỹ, có khả năng sinh trưởng nhanh, có hoạt tính enzymmạnh và đặc biệt là không sinh độc tố aflatoxin.
Bào tử mốc làm tương Aspergillus Oryzae giúp làm tương thơm ngon và an toàn.
Mỗi gói 50 gr mốc đủ dùng cho 30 – 50 kg gạo.
THÀNH PHẦN
Thành phầm của mốc làm tương bao gồm: Bào tử nấm mốc Aspergillus oryzae và vi khuẩn (chủ yếu là Bacillus subtilis) chứa enzym amylase chuyển hóa tinh bột của xôi thành đường và enzym proteaza chuyển hóa protein đậu tương thành axit amin, nên tương vừa có vị ngọt của đường, vừa có vị ngọt của nước dùng gà, còn có loại amin làm cho tương có hương thơm đặc trưng.
NẤM MỐC LÀM TƯƠNG ASPERGILLUS ORYZAE – MỐC LÀM TƯƠNG ( BÀO TỬ MỐC TƯƠNG) là chế phẩm sinh học hữu hiệu dùng để ủ tương, gạo nếp thành nước chấm bổ dưỡng, thơm ngon và an toàn
Nguyên tắc làm tương (đặc hay loãng) là…” làm cho tinh bột trong gạo thành đường gluco nhờ thứ men ở trong mốc giống gây ra, đường gluco ấy hợp với bột đậu và muối…sẽ thành ra tương”
HƯỚNG DẪN LÀM TƯƠNG AN TOÀN VỚI MỐC GIỐNG
Tương là món ăn dân tộc rất phổ biến trong văn hóa ẩm thực của người Việt, cả ở nông thôn lẫn thành thị. Người xưa thường nói “thịt cá hương hoa, tương cà gia bản”.
Còn có câu ca dao; “Anh đi anh nhớ quê nhà, nhớ canh dau muống nhớ cà dầm tương. Nhớ ai dãi nắng dầm sương…” cũng đủ thấy món ăn này gắn bó với người dân Việt như thế nào.
Ở việt Nam có nhiều địa phương sản xuất tương ngon có tiếng như Tương Bần (Hưng Yên), Cự Đà (Hà Đông),Nam Đàn (Nghệ An)… Mỗi địa phương đều có bí quyết làm tương riêng, có loại nguyên liệu (đậu tương) sau khi rang được xay nhỏ, nên tương rất nhuyễn và mịn (nát như tương), có loại đậu chỉ giã dập, vẫn còn mảnh, nên khi chấm vẫn còn cái nên có kiểu hấp dẫn riêng. Tuy nhiên những nét chung thì vẫn giống nhau.
Đối với tương truyền thống:
Phơi nắng khi làm tương
Đối với tương miso: loại này phải ủ từ 2-3 năm mới ngon
Chuẩn bị nguyên liệu làm miso:
Cách làm
Cách làm tương miso đơn giản, dễ làm
CÁCH Ủ SAKÊ CỦA NHẬT BẢN BẰNG BÀO TỬ MỐC TƯƠNG ASPERGILLUS ORYZAE
Sakê ( saké) là loại không chưng cất truyền thống của Nhật Bản. Nó có nhiều đặc điểm thú vị như:
Sự lên men saké bắt đầu bằng công đoạn chuẩn bị mốc Aspergillus oryzae, có tác dụng đường hóa tinh bột gạo thành glucose. Sau đó, cho nấm men saké vào thì sự lên men bắt đầu. Sự lên đường hóa và lên men xảy ra cùng lúc tại một thời điểm, nên gọi là ” sự lên men song song”. Đây là đặc tính phân biệt quá trình lên men sakê và các quá trình lên men khác.
Sakê rất dễ làm tại nhà, gọi là “doburoku” ( tiếng Nhật). Doburoku là một phần của nền văn hóa Nhật Bản